Chơn lý Thập nhị nhơn duyên

  1. Sự Kiện
  2. cách đây 3 năm
  3. 1.131 lượt xem
  4. Nguồn: www.giacngo.vn
1  2  3  4  5
0/5 - 0 Bình chọn - 1131 Lượt xem

GN - Chơn lý Thập nhị nhơn duyên là một trong 69 bài giảng của Tổ sư Minh Đăng Quang, đã quen thuộc với Tăng Ni, Phật tử Hệ phái Khất sĩ - thành viên sáng lập GHPGVN.

Hòa thượng Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái diễn kệ bộ Chơn lý, đã ấn hành trong 4 tập. Nhân tưởng niệm 68 năm ngày Tổ sư vắng bóng (1954-2022), Giác Ngộ trích một phần trong Chơn lý - Thiền quang vi diệu, giới thiệu cùng quý độc giả.

I. Nhơn duyên sanh cõi đời

mười hai duyên pháp

Hằng chuyền níu nhau mãi

Do đó, có chúng sanh

Có vui rồi có khổ

Tấn hóa hay tiêu diệt:

Vô minh sanh ra Hành

Hànhrồi sanh ra Thức

Thức sanh ra Danh sắc

Danh sắc sanh Lục nhập

Lục nhập sanh ra Xúc

Xúc rồi sanh ra Thọ

Thọ rồi sanh ra Ái

Ái rồi sanh ra Thủ

Thủ rồi sanh ra Hữu

Hữu rồi sanh ra Sanh

Sanh rồi sanh ra Tử

Tử trở lại Vô minh

Luân hồi chịu khổ nhọc.

Vô minhkhông sáng

Hay là chưa có biết

Cũng là cảnh võ trụ

Khi chưa có tứ đại

Và chưa có chúng sanh

Ta không thể biết được

Vô minh sanh ra hành

Hànhsự vận hành

Nước, đất, lửa, gió... xoay

Chuyển thành: Quả địa cầu

Rung động và thay đổi

* Buổi đầu: Hành sanh thức

Thứccái biết, sống

Của chúng sanh vạn vật

* Thức sanh ra danh sắc

Danh sắctên gọi

Của sắc thân tứ đại

* Danh sắc sanh lục nhập

Lục nhậpsắc, thinh

Hương, vị, xúc, pháp ngoài

Thức trong xúc đối tượng

Sanh mắt, tai, mũi, lưỡi

Thân, ý của con người

* Lục nhập sanh ra xúc

Xúc sự xúc đối

Xúc động và xúc giác

Xúc tiếp căn và trần

* Xúc sanh ra tình thọ

Thọsự ưa chịu

Thức do căn nhiễm trần

* Thọ rồi sanh ra Ái

Ái thương yêu trìu mến

Lục trần và lục căn

Và chúng sanh các pháp

* Ái sanh ra chấp thủ

Thủ cất lấy, giữ gìn

* Thủ sanh ra hiện hữu

Hữu, là thật

Là có có, hoài hoài

* Hữu lần sanh ra sanh

sanh sản, nảy nở

Là chế biến tạo thêm

* Sanh rồi sanh ra tử

Tửthay đổi, chết mất

Tàn tiêu và tan hoại

Không không, dứt diệt bỏ

Sau đó hồi quay lại

Quanh quẩn bao nhiêu việc

Loay hoay chịu khổ nhọc

Mãi mãi hoàn không công

Đành sống trong chiêm bao

Ban đêm sợ hình bóng

Chẳng biết đâu về đâu

Và ở đâu, ra sao...

Cũng như cá ao cạn

Không biết đường lui, tới

Mặc cho sự rủi may

Tôi mọi cho quỷ ma

Đó là mười hai duyên

Của tứ đại lăn xoay.

II. Còn đây mười hai duyên

Của chúng sanh luân hồi:

Vô minhthuở chưa thai

Chưa có được, biết được

Sanh ra Hành: Giao hiệp

Sanh ra Thức: Cái biết

Cái sống trong thai bào

Rồi sanh ra Danh sắc

Tên gọi của sắc thân

Rồi sanh ra Lục nhập

sắc, thinh, hương, vị

Xúc, pháp nhập sáu căn

Lúc mới sanh - sanh Xúc

Sự cảm xúc,xúctiếp

Xúc động và Giác - Đối

Sanh ra thọ - ưa chịu

Biết muốn ham vui thích

Sanh ra Ái - thương yêu

Và tríu mến kẻ khác

Sanh ra Thủ - giữ lấy

Làm chồng vợ riêng tư

Ích kỷ, chấp thủ, xấu

Sanh ra Hữu - có thai

Có gia đình riêng tư

Tham sân si... độc ác

Có sự nghiệp của mình

Sanh - Sanhcon nảy cháu

Lần sanh thêm tội ác

Nghề nghiệp khổ trược đời

Sanhra Tử chết

Mất tiêu diệt, không không

Sự sanh và sự chết

Nối tiếp nhau sanh hóa

Tiêu hoại và đổi thay

Luân hồi chịu khổ nhọc!

Đồ bể rồi sắm thêm

Thất bại thì làm lại

Cứ xoay tròn như thế

Trong dốt nát vô minh

Chết rồi thì mất hết

Biết đời có bấy nhiêu

Nhập thai sanh trở lại.

Dòng luân hồi vô tận!

Sống để rồi lần chết

Chết để rồi sống lại

Cam chịu kiếp luân hồi

Xoay vòng đời nghiệt ngã

Chẳng hiểu sao thiệt giả

Làm ăn và học hành

Nghề nghiệp đường danh lợi

Tình yêu và gia đình

Giành giựt và cướp bóc

Chen đua trong vật chất

Kiếp sống tạm phù du

Mơ màng trong vui khổ

Tới đâu lần hay đó

Chẳng biết ngả đầu đuôi

Thiện ác xoay mù mịt

Vừa ý chen chúc vào

Quấy khổ đành cam chịu

Kham nhẫn cõi phù sinh.

III. Lại nữa, khổ

Của chúng sanh, cuộc đời

Sống buông trôi thân phận

Sống thả nổi chơi bời

Cho mình hay, mình giỏi

Học tập, chữ tiếng tốt

Tự cao và tự phụ

Chấp gia phong, tuổi tác

Trong dốt nát minh

Không quán xét tầm tòi

Không ngó trước, xem sau

Sống nay lần, mai lựa

Đến đâu hay đến đó

Sống không thông chơn lý

Không lập chí chính mình

Mờ mịt trong bóng tối

Thôi thì cứ lần mò

Hành ma và tác quái

Múa xoay khổ thở mệt

Cố an ủi phủi quên

Nuôi giấc mộng trần đời

Mê ngủ gà, ngủ gật

Vui chịu sự hành hạ

Rồi tự thị tài trí

Thức mưu mô tự thân

Nương theo Danh sắc mình

Hình đẹp và bóng xinh

Tiếng tăm mùi vị thơm

Và vật chất mịn màng

Có ai hơn mình đâu!

Mà phải lo cượng cầu

So đo Căn - Trần - Thức

Mặc thù tạc hơn thua

Mặc Lục nhập tương tác

Càng tiếp Xúc vật chất

Càng sanh Thọ ưa chịu

Tham sân si làm của

Thân khẩu ý tự thân

Tự mãn Ái không rời

Chấp họ hàng quyến thuộc

Thủ giữ tài sản

Chấp cho là có Hữu

Thay đi và đổi lại

Có vẫn mãi có hoài

Sanh đi sanh lại

Con cháu sự nghiệp dài

Đến một ngày Tử chết

Không quen cảnh vắng không

Lòng nhớ cảnh, nhớ người

Ý khổ tìm nhập thai

Trói buộc luân hồi mãi

Chỉ biết có bấy nhiêu

Trôi theo nguồn dục vọng

Mặc cho thức nổi chìm.

Có kẻ quá tham lam

Mà nhẫn tâm tàn bạo

Đến nỗi phải khổ điên

Tiêu diệt luôn cái thức!

Hoại tử rồi mất luôn

Cũng có kẻ buộc ràng

Cố chấp có cuộc đời

Chôn chết thức trong trần

Đến khi bừng tỉnh ngộ

Biết cái sống chủ nhơn

Bỏ cái ta giả dối

Bỏ cái ngã sở chấp

Mà yên lặng nín nghỉ

Cõi tịch lặng Niết-bàn!

Sanh như thế tức là

Sự sống bằng tinh thần

Tử như vậy chính là

Chết từ bỏ vật chất

Bậc thật sự Giác ngộ

Mới thật là dứt khổ.

IV. Sự luân hồi, lộn lại

Nào biết ai lớn nhỏ

Nào biết ai trước sau

Cứ mãi bám níu nhau

Xoay lăn tròn chóng mặt

Vô minh không tự biết

Là trụ cốt khởi đầu

Hành ác tức căm xe

Nối kết Thức tiến lên

Danh sắc - Lục nhập - Xúc

ThọÁi trôi lăn

Ái chúng sanhbình đẳng

Đến đỉnh cao trí tuệ

Vào chơn như làm Phật

Bay bổng thoát luân hồi

Thoát bánh xe khổ não!

Trái lại, Ái dục tình

Thì ích kỷ độc ác

Nặng nề buộc dính chặt

Phải rớt lộn trở xuống

Thủ, HữuSanh, Tử

Tử rồi quay nhập thai

Danh sắc - Lục nhập - Xúc

Thọ Ái trở lại

Xoay tròn và khổ lụy!

Càng Vô minh tối tăm

Càng Hành ácvận chuyển

Chúng sanh như con mọt

Đeo trụ cốt Vô minh

Phải điên đầu rối óc...

Níu lấy cây căm Hành

Té chơi vơi, lộn ruột!

Người mà ôm vành xe

Thức - Danh sắc - Lục nhập

Ái - Thủ - Hữu - Sanh - Tử...

Bị chết khổ tan hình!

Ấy là kẻ mãi sanh

Sanh tội ác, chết diệt

Thương đau... lụy đời đời

Vậy ta nên nhớ rằng:

Ái chúng sanh - hành thiện

Đến trí huệ chơn như

Ngôi chánh giác viên mãn

Sống đời đời không khổ

Kẻ buộc Ái tình dục

Đi vào đường vạy tà

Hành ác đến Vô minh

Nẻo vọng động, si mê

Chết diệt tiêu... khổ não

Chẳng được chút vui nào!

V. Thật vậy, sống đời

Biết làm chủ chính mình

Lấy trí tuệ trụ cột

Hành thiện làm căm xe

Chơn như làm vành bánh

Tức là bánh xe pháp

Chúng sanh cỡi bên trên

Đi chung quanh vòng đời

Sáng chói chơi, bay nhẹ

Hơn là lấy bánh xe

Vô minh làm trụ cốt

Hành ác làm căm xe

Vọng tưởng làm vành bánh

Mà phải chịu thảm hình!

Trong bánh xe vô minh

Luân hồi tám khổ lớn

Sanh - già bệnh - chết

Cầu muốn không được khổ

Thương yêu xa lìa khổ

Thù ghét mà gặp gỡ

Ngũ uẩn xấu, tốt... hành

Cả muôn điều đau khổ!

Còn bánh xetrí tuệ

Có tám đạo Niết-bàn:

Thấy chánh, suy gẫm chánh

Nói chánhlàm chánh

Sống chánh, siêng năng chánh

Niệm tưởng, yên định chánh

Tất cả hưởng an vui!

Vô minh như dây rối...

Càng cựa quậy, buộc mình

Chẳng biết đầu, biết đuôi

Càng xao xuyến... càng khổ!

Trí tuệnhư gươm bén

Cắt đứt chỉ mành đời

Đầu đuôi đều rã đoạn

Trí tuệbiết dừng nghỉ

Thanh nhàn và an tịnh

Vô minhưa chạy nhảy

Nói làm cấu trược ảo

Mệt nhọc khổ không công!

Suốt đời múa giễu trò

Đến chết còn sợ sệt

Đảo điên trong mê muội

Dầu tỉnh ra đã muộn

Mong cầu đời kiếp khác

Chưa biết sẽ ra sao!

Thế mới chợt hiểu rằng:

Trần thế khói bụi mờ

Gió mưa ngày đêm lạnh

Khổ đau tự mình chịu

Khó than cùng chồng vợ

Mẹ cha và quyến thuộc

Có miệng mà như không

Chẳng kêu cứu được ai

Thế gian đầy khổ não

Thế gian là mộng ảo!

VI. Đứa trẻ trong bụng mẹ

Màn Vô minh che lấp

Bị các Hành bên ngoài

Mà sanh Thức biết trong

Có thức mới tượng hình:

Danh sắcLục nhập

Thai lớn chun ra ngoài

Ba tuổi lần có Xúc

Sáu tuổi Thọ tăng dần

Mười hai tuổi có Ái

Ái còn nhỏ hồn nhiên

Trong sạch và chơn chánh

Mười hai... biết thương yêu

Chấp thủ với gia đình

Ba mươi tuổi... xã hội

Bốn tám tuổi… già giặn

Biết thương yêu chúng sanh

Ái tình cao thượng ấy

Nảy nở đúng như vậy

Thật bác ái đại đồng

Thật từ bi vô lượng

Nhất định sẽ thành Phật.

Người: Thương yêu gia đình

Trời: Thương yêu xã hội

Phật: Thương yêu chúng sanh

Các bậc ấy quên mình

Biết lo cho kẻ khác

Muôn loại phải kính vì

Trái lại, lòng tư kỷ

Tham hưởng vui mê muội

Thích ái tình nhục dục

Đi xuống hố si mê

Chôn sâu trong địa ngục

Đọa khổ trong hắc ám!

Chịu khổ lụy không ngừng

Lần hồi hoại diệt tận

Đứng ngồi khó thở yên

Thế nên phải biết rằng:

Chữ Áiquý báu nhất

Mà cũng độc hại nhất.

Người người cần tỉnh ngộ

Từ Vô minh đếnTử

Là con đường tấn hóa

Địa ngục đến Niết-bàn

Từ chưa có đến

Có vĩnh viễn tức không

Hay cũng là con đường

Bị cắt đứt giữa chừng

Chúng sanh vừa tấn hóa

Vừa thụt lùi, tan hoại!

Sự cắt đứt ấy là

Lưỡi gươm Ái suối vàng

Cũng gọi là oan nghiệt

Chỗ chôn người khổ nạn!

Lưỡi gươm Ái tòa sen

Lưỡi gươm Ái trí tuệ

Hay cụm mây, chiếc xe

Đưa chúng sanh về Phật.

An tọa vị Niết-bàn

Từ Vô minh lăn xoay

Đến Hành, Thức, Danh sắc

Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái

Nửa chặng đường tiến hóa

Nơi ấy chia hai nẻo:

- Ái chúng sanh tiến lên

- Ái tình dục đọa xuống.

a) Ái chúng sanh tiến lên

Từ bi và bác ái

Luôn thương người, giúp đời

Thủ giữ lấy tâm thiện

Lấy pháp thiện hộ đời

Luôn luôn hành thiện sự

Đem lợi lạc chúng sanh

Hàng ngày thực hành pháp

Phương tiện và trí tuệ

Hộ trì người vượt khổ

Sau rốt tự ly xả

Nghỉ hưu trí Niết-bàn.

b) Ái tình dục lui xuống

Quẹo bên trái, xấu, quấy

Mà chấp thủ, giữ lấy

Tham sắc tốt hữu vi

Tham tài sản của cải

Tham nhà cao cửa rộng

Tham tình tiền danh lợi

Mê ác nghiệp tội lỗi

Nghĩ mưu sâu kế độc

Chiếm đoạt lợi về mình

Gây ác báo dẫy đầy

Đến nỗi khi tử chết

Khổ điên cuồng tiêu diệt.

Vậy muốn hết luân hồi

Hết hắc ám khổ lụy

Phải tìm tòi, suy quán

Tỏ rõ nghiệp nhân duyên

Dùng trí huệ cắt đứt

Ái dục tình đời kiếp

Đam mê trói buộc mình

Nay muốn mình thoát khổ

Phải biết tự soi quán

Dẹp bóng tối vô minh

Phá tan hànhsự ác

Biết tu dưỡng chính mình

Hành trìBát Chánh đạo

Trú yên vui thiệt thọ.

Trí tuệ thì Hànhthiện

Thứcthiện, Danh sắc thiện

Lục nhập, Xúc, Thọ... thiện

Ái, Thủ, Hữu... đều thiện

Sanh, Tửluôntrọn thiện

Nhất định trú Niết-bàn.

Vô minhHành ác

Thức, Danh sắc, Lục nhập

Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu

Sanh, Tử... ác luân hồi

Mãi khổ báo tiêu diệt!

Trí huệ hay vô minh

Do chính takhởi đầu

Do chính taquyết định

Lầm lạc khổ thâm sâu!

Trí huệ - sự hiểu trắng

Sống hiền thiện, an vui

Trí huệkhông cóHành

KhôngHành, đâu cóThức

KhôngThức, khôngDanh sắc

Không Lục nhập, Xúc, Thọ

Không Ái, không Thủ, Hữu

Không Sanh,Tử trầm luân

Khôngminhluân hồi!

Chúng sanh từ sống biết

Biết sợ Tử tham Sanh

Chấp Thủ - Hữu Ái

Rồi Thọ - Xúc - Lục nhập

Nương Danh sắc, tậpThức

Bị trói Hành - Vô minh!

Giả mắt ngơ, tai điếc

Tưởng như ngu, dại, khờ

Sống dốt nát ngây ngô

Không cần biết đen trắng

Sống tạm qua ngày tháng

No bụng, sướng miệng thôi

Chẳng phân chia phải quấy

Như sâu mọt gặm nhấm

Đục phá nát cây trần.

Mười hai duyên tập khổ

Khởi phát từ Vô minh

Hay khai nguồnTrí huệ

Đều tự do chính mình!

Mỗi người tự quyết định

Thích đi lên, đi xuống

Như một cái vòng tròn

Địa ngục hay Niết-bàn

Sống khổ hay sống vui

Do chính mình lựa chọn

Cây thang mười hai nấc

Bước lên chốn thanh cao

Hay xuống nơi hố thẳm

Sống khổ, vui, còn, mất

Do chúng sanh tự quyết!

VII. Mười hai nhơn duyên pháp

Ví như một đám rừng

Có mười hai cánh cửa

Hay như một bánh xe

Có mười hai cây căm

Một cửa tức mười hai

Động một là động hết

Trong mộtmười hai

Trong mười hai một

Dính nhau như dây xích

Quấn đeo, chồng chéo nhau

Chúng sanh khi vướng vào

Mãi quanh quẩn xoay tròn

Xây xẩm và chóng mặt

Không biết phương giải thoát!

Vĩnh kiếp bị trầm luân

Nhưng nếu được hữu duyên

Sống biết thương yêu nhau

Trong cùng cảnh rối khổ

Đồng lòng chung gắn kết

Sống biết linh... học tập

Tìm cắt dây xiềng xích

Khai phá cửa địa ngục

Thoát khỏi chết an vui.

Mười hai nhơn duyên pháp

Tức mười hai cửa Đạo

Đi tới miền Địa ngục

Hay đến cảnh Thiên đường

Hay vào trong cõi Phật

Mười hai Địa ngục ác

Mười hai Thiên đường thiện

Mười haicõi Phật huệ

Tất cả ác thiện huệ

Đều có mười hai cửa

Do chúng sanh tự chọn

Tức mười hai chứng bệnh

Xấu tốt hay mê ngộ

Có mười hai loại thuốc

Đặc trị bệnh chúng sanh

Thiện - Ác hay Tuệ giác.

Chúng ta ai cũng có

Một sở chấp, thói quen

Trong mười hai nhơn duyên

Nay muốn thoát luân hồi

Thì phải tự chính mình

Biết soi quán tự thân

Đang đọa khổ cửa nào

Thì lần ra cửa đó

Khi mê tham chìm đắm

Khi ngộ biết quay đầu

Cửa nào ra cửa đó

Tỉnh giácthoát bờ mê

Đừng tự chấp trói buộc

Bảo thủ mãi đi tới

Lỡ rồi thôi lỡ luôn

Khổ rồi đành chịu vậy

Khốn họa mãi khôn cùng!

Nắm lấy mười hai duyên

Vọng động hoài, khổ hoài

Biết buông, biết dừng lại

Nhất định được giải thoát

Khổ vui do chính mình

Tự mình - Sống biết linh!

Chúng ta nên biết rằng:

Trí huệlưỡi gươm thần

Múa ra hay gom hiệp

Cắt đứt các khổ sầu

Diệt tiêu phiền não chướng

Trí huệánh lửa sáng

Dẹp tan bóng vô minh

Thiêu đốt cỏ, cây, thú

Ma, người, trời, địa ngục

Cũng như chiếc cầu cao

Đưa ta qua biển ái

Như cặp cánh đại bàng

Đưa ta vượt rừng sâu

Như đám mưa tan bụi

Như bè vớt kẻ chìm

Như mái nhà che nắng

Như ánh sáng thanh thiên.

Trí tuệlà bến giác

Cặp mắt sáng soi đời

Như mặt trời, mặt trăng

Muôn loài nương để sống

Sự sống ai cũng muốn

Niết-bàn thường lạc tịnh!

Chơn thực và vĩnh viễn

Hột sen khô để đời

Khác hơn sự sống tạm

Của chúng sanh phàm phu

Hột còn non, còn nớt

Có khi quá khổ điên

Cảnh địa ngục, vô minh

Hột sình thúi, hư rã

Chớ cái thân huyễn ảo

Còn mất có tiếc chi!

Người trí tạm nương nó

Cho hột mau già cứng.

Cái chết, ai cũng sợ

Nhưng thân chết, không mất

Chớ cái biếtkhổ điên

Là chết mất biệt luôn!

Nên cái biết của ta

Phải chothật già cứng

Đừng để non, sâu thúi!

Cái khổlà con sâu

Ác gianchất thúi

Nó ăn mòn... thức, biết

Đục khoét... chết dần dần

Cái thức biết, sự sống

Phải gìn giữ, nuôi dưỡng

Nó trường tồn miên viễn

Thật an vui định tĩnh.

VIII. Thứ lớp của nhơn duyên nơi loài người

1. Vô minhđịa ngục

Tứ đại mới hiệp thành

Cho đến khi một tuổi

(Chưa có cái biết sáng).

2. Hành: Ngạ quỷ, cây, cỏ

Từ một tới sáu tuổi

(Chỉ có thọ cảm thôi,

Đói khát và tham lam).

3. Thức: Súc sanh, thú vật

Từ sáu tới mười hai

(Tuổi chỉ có tư tưởng

Biết hơn thua, sân giận).

4. Danh sắc: A-tu-la

Mười hai tới mười tám

(Tuổi tương tợ ác thần

Có hành vi, si mê).

5. Lục nhậpnhơn, người

Mười tám tới hăm bốn

(Biết hành thiện giúp đời

Có lòng nhơn, tín, nghĩa).

6. Cảm XúcThiên, Trời

Hăm bốn tới ba mươi

(Tuổi có trí, cảm xúc

Biết thân thiện, chia sẻ).

7. Thọ giữ là Nhập lưu

Ba mươi tới ba sáu

(Cư sĩ biết ưa đạo

Tu-đà-huờn tín tâm).

8. Ái Nhứt vãng lai

Ba sáu đến bốn hai

(Tư-đà-hàm, từ ái

Biết thương sót chúng sanh).

9. ThủA-na-hàm

Nghĩa Bất lai, giữ đạo

Tu tinh tấn, ly xả

Quyết xuất gia, giải thoát.

10. Hữu như A-la-hán

Sống Vô sanh, an tịnh

(Bốn tám đến năm tư

Tâm tánh vững chắc thật).

11. Sanh như hạnh Duyên Giác

Bích Chi Phật trong đời

(Năm bốn đến sáu mươi

Trí tuệ, tỏ rõ pháp

Giác ngộ, sống thanh tịnh).

12. Tử như hạnh Bồ-tát

Sống Giác tha hữu tình

(Sáu mươi đến sáu sáu

Coi như mình đã chết

Vì chúng sanh phụng sự).

Sáu sáu đến bảy hai

Gọi Như Lai hưu trí

An trụ tánh chơn như.

Qua khỏi bảy mươi hai

Là Niết-bàn trọn vẹn

Đạo đời dừng tắt nghỉ

Bất sanh và bất diệt

Tất cả là nhơn duyên

Từng trình độ pháp tiến

Theo tuổi tác đời người

Ai sống y như thế

Là biết tu - đắc đạo

Kết quả trong một kiếp

Nhất định chẳng sai ngoa!

Muốn biết rõ cách tu

Của từng hạng bậc ấy

Ta cầnhọc giới luật

Giới luật là nền tảng

Cội gốc của chúng sanh

Riêng nơi Chơn lý này

Ta cầnbiết nguồn gốc

Nhơn duyênTập trước đã!

Quan trọng nhấtchữ ái

Chia ngã rẽ hai đường

Người đứng trên chữ Ái

Là chư Phật, chư Tổ

Người đứng dưới chữ Ái

Là chúng sanh phàm phu

Điều đó đáng lưu ý

Cho chúng ta thận trọng

Tự chọn, quyết cho mình

Phật - Tổ hay ngu phu

Tự mình quyết, mình chọn.

IX. Nhơn và Quả của Mười hai nhơn duyên

1. Vô minh cộng với Hành

nhơn duyên quá khứ

2. Thức, Danh sắc, Lục nhập

quả báo hiện tại

3. Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu

nhơn duyên hiện tại

4. Sự Sanh - Tử cuộc sống

quả báo vị lai.

Chúng sanh nhiều đời kiếp

Do Vô minh, Hành ác

Gây nhơn duyên nghiệp chướng

Nên mới phải nhập thai

Sanh ThứcDanh sắc

Lục nhập quả hiện tại

Có thân hình đời này

Bởi có thân hình này

Mới có Xúc, Thọ, Ái

Tánh Thủ, Hữu đang có

Tiếp gây nhơn hiện tại

Chịu quả Sanh - Tử sau

Quả vị lai khổ não!

*Muốn không quả vị lai

Sanh - Tử khổ thì nhớ

Đừng cónhơn hiện tại

Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu.

*Muốn không nhơn hiện tại

Phải không quả hiện tại

Thức, Danh sắc, Lục nhập

(Thì không quả vị lai).

*Muốn không quả hiện tại

Phải trừnhơn quá khứ:

Vô minh và Hành ác

Đã là nhơn quá khứ

Làm sao dứt trừ được

Âu là ta hôm nay

Muốn sau nàykhông khổ

Không Sanh Tử - Vô minh

Thì đời nàyphải nhớ

Cố tu tập trí huệ

Tập hành thiện, bỏ ác

Thì mới mong có được

Dòng luân hồi đời sau

Đời sống được sáng trưng

Dứt sanh tử khổ quả

Dừng nghỉ Niết-bàn vui!

Không còn tám vạn chướng

An hưởng tám vạn vui

Giác ngộ chơn như đạo

Tuyệt dứt sanh tử báo

Dòng luân hồi vắng lặng

Phật Như Lai tịch tịnh!

Phật Như Lai hạo nhiên!

Tổ sư Minh Đăng Quanggiảng luận

Sa-môn Giác Toàndiễn kệ

(Pháp viện Minh Đăng Quang, 22-4-Canh Tý – 2020)

Nguồn: www.giacngo.vn

Tin liên quan