Chơn lý Thập nhị nhơn duyên
- Sự Kiện
- cách đây 3 năm
- 1.131 lượt xem
- Nguồn: www.giacngo.vn
GN - Chơn lý Thập nhị nhơn duyên là một trong 69 bài giảng của Tổ sư Minh Đăng Quang, đã quen thuộc với Tăng Ni, Phật tử Hệ phái Khất sĩ - thành viên sáng lập GHPGVN.
- Hội thảo về Phật học Việt Nam thời hiện đại
- Việc suy cử trụ trì tổ đình Sắc tứ dời sau tháng 7-2020
- Sự kế tục làm sáng đạo giữa đời
- Vì thương Phật…
- “Củng cố niềm tin cho Phật tử là nhiệm vụ quan trọng”
Hòa thượng Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái diễn kệ bộ Chơn lý, đã ấn hành trong 4 tập. Nhân tưởng niệm 68 năm ngày Tổ sư vắng bóng (1954-2022), Giác Ngộ trích một phần trong Chơn lý - Thiền quang vi diệu, giới thiệu cùng quý độc giả.
I. Nhơn duyên sanh cõi đời
Có mười hai duyên pháp
Hằng chuyền níu nhau mãi
Do đó, có chúng sanh
Có vui rồi có khổ
Tấn hóa hay tiêu diệt:
Vô minh sanh ra Hành
Hànhrồi sanh ra Thức
Thức sanh ra Danh sắc
Danh sắc sanh Lục nhập
Lục nhập sanh ra Xúc
Xúc rồi sanh ra Thọ
Thọ rồi sanh ra Ái
Ái rồi sanh ra Thủ
Thủ rồi sanh ra Hữu
Hữu rồi sanh ra Sanh
Sanh rồi sanh ra Tử
Tử trở lại Vô minh
Luân hồi chịu khổ nhọc.
Vô minh là không sáng
Hay là chưa có biết
Cũng là cảnh võ trụ
Khi chưa có tứ đại
Và chưa có chúng sanh
Ta không thể biết được
Vô minh sanh ra hành
Hành là sự vận hành
Nước, đất, lửa, gió... xoay
Chuyển thành: Quả địa cầu
Rung động và thay đổi
* Buổi đầu: Hành sanh thức
Thức là cái biết, sống
Của chúng sanh vạn vật
* Thức sanh ra danh sắc
Danh sắc là tên gọi
Của sắc thân tứ đại
* Danh sắc sanh lục nhập
Lục nhập là sắc, thinh
Hương, vị, xúc, pháp ngoài
Thức trong xúc đối tượng
Sanh mắt, tai, mũi, lưỡi
Thân, ý của con người
* Lục nhập sanh ra xúc
Xúc là sự xúc đối
Xúc động và xúc giác
Xúc tiếp căn và trần
* Xúc sanh ra tình thọ
Thọ là sự ưa chịu
Thức do căn nhiễm trần
* Thọ rồi sanh ra Ái
Ái thương yêu trìu mến
Lục trần và lục căn
Và chúng sanh các pháp
* Ái sanh ra chấp thủ
Thủ cất lấy, giữ gìn
* Thủ sanh ra hiện hữu
Hữu là có, là thật
Là có có, hoài hoài
* Hữu lần sanh ra sanh
Là sanh sản, nảy nở
Là chế biến tạo thêm
* Sanh rồi sanh ra tử
Tửthay đổi, chết mất
Tàn tiêu và tan hoại
Không không, dứt diệt bỏ
Sau đó hồi quay lại
Quanh quẩn bao nhiêu việc
Loay hoay chịu khổ nhọc
Mãi mãi hoàn không công
Đành sống trong chiêm bao
Ban đêm sợ hình bóng
Chẳng biết đâu về đâu
Và ở đâu, ra sao...
Cũng như cá ao cạn
Không biết đường lui, tới
Mặc cho sự rủi may
Tôi mọi cho quỷ ma
Đó là mười hai duyên
Của tứ đại lăn xoay.
II. Còn đây mười hai duyên
Của chúng sanh luân hồi:
Vô minhthuở chưa thai
Chưa có được, biết được
Sanh ra Hành: Giao hiệp
Sanh ra Thức: Cái biết
Cái sống trong thai bào
Rồi sanh ra Danh sắc
Tên gọi của sắc thân
Rồi sanh ra Lục nhập
Là sắc, thinh, hương, vị
Xúc, pháp nhập sáu căn
Lúc mới sanh - sanh Xúc
Sự cảm xúc,xúctiếp
Xúc động và Giác - Đối
Sanh ra thọ - ưa chịu
Biết muốn ham vui thích
Sanh ra Ái - thương yêu
Và tríu mến kẻ khác
Sanh ra Thủ - giữ lấy
Làm chồng vợ riêng tư
Ích kỷ, chấp thủ, xấu
Sanh ra Hữu - có thai
Có gia đình riêng tư
Tham sân si... độc ác
Có sự nghiệp của mình
Sanh - Sanhcon nảy cháu
Lần sanh thêm tội ác
Nghề nghiệp khổ trược đời
Sanhra Tử là chết
Mất tiêu diệt, không không
Sự sanh và sự chết
Nối tiếp nhau sanh hóa
Tiêu hoại và đổi thay
Luân hồi chịu khổ nhọc!
Đồ bể rồi sắm thêm
Thất bại thì làm lại
Cứ xoay tròn như thế
Trong dốt nát vô minh
Chết rồi thì mất hết
Biết đời có bấy nhiêu
Nhập thai sanh trở lại.
Dòng luân hồi vô tận!
Sống để rồi lần chết
Chết để rồi sống lại
Cam chịu kiếp luân hồi
Xoay vòng đời nghiệt ngã
Chẳng hiểu sao thiệt giả
Làm ăn và học hành
Nghề nghiệp đường danh lợi
Tình yêu và gia đình
Giành giựt và cướp bóc
Chen đua trong vật chất
Kiếp sống tạm phù du
Mơ màng trong vui khổ
Tới đâu lần hay đó
Chẳng biết ngả đầu đuôi
Thiện ác xoay mù mịt
Vừa ý chen chúc vào
Quấy khổ đành cam chịu
Kham nhẫn cõi phù sinh.
III. Lại nữa, khổ vô lý
Của chúng sanh, cuộc đời
Sống buông trôi thân phận
Sống thả nổi chơi bời
Cho mình hay, mình giỏi
Học tập, chữ tiếng tốt
Tự cao và tự phụ
Chấp gia phong, tuổi tác
Trong dốt nát Vô minh
Không quán xét tầm tòi
Không ngó trước, xem sau
Sống nay lần, mai lựa
Đến đâu hay đến đó
Sống không thông chơn lý
Không lập chí chính mình
Mờ mịt trong bóng tối
Thôi thì cứ lần mò
Hành ma và tác quái
Múa xoay khổ thở mệt
Cố an ủi phủi quên
Nuôi giấc mộng trần đời
Mê ngủ gà, ngủ gật
Vui chịu sự hành hạ
Rồi tự thị tài trí
Thức mưu mô tự thân
Nương theo Danh sắc mình
Hình đẹp và bóng xinh
Tiếng tăm mùi vị thơm
Và vật chất mịn màng
Có ai hơn mình đâu!
Mà phải lo cượng cầu
So đo Căn - Trần - Thức
Mặc thù tạc hơn thua
Mặc Lục nhập tương tác
Càng tiếp Xúc vật chất
Càng sanh Thọ ưa chịu
Tham sân si làm của
Thân khẩu ý tự thân
Tự mãn Ái không rời
Chấp họ hàng quyến thuộc
Mà Thủ giữ tài sản
Chấp cho là có Hữu
Thay đi và đổi lại
Có vẫn mãi có hoài
Và Sanh đi sanh lại
Con cháu sự nghiệp dài
Đến một ngày Tử chết
Không quen cảnh vắng không
Lòng nhớ cảnh, nhớ người
Ý khổ tìm nhập thai
Trói buộc luân hồi mãi
Chỉ biết có bấy nhiêu
Trôi theo nguồn dục vọng
Mặc cho thức nổi chìm.
Có kẻ quá tham lam
Mà nhẫn tâm tàn bạo
Đến nỗi phải khổ điên
Tiêu diệt luôn cái thức!
Hoại tử rồi mất luôn
Cũng có kẻ buộc ràng
Cố chấp có cuộc đời
Chôn chết thức trong trần
Đến khi bừng tỉnh ngộ
Biết cái sống chủ nhơn
Bỏ cái ta giả dối
Bỏ cái ngã sở chấp
Mà yên lặng nín nghỉ
Cõi tịch lặng Niết-bàn!
Sanh như thế tức là
Sự sống bằng tinh thần
Tử như vậy chính là
Chết từ bỏ vật chất
Bậc thật sự Giác ngộ
Mới thật là dứt khổ.
IV. Sự luân hồi, lộn lại
Nào biết ai lớn nhỏ
Nào biết ai trước sau
Cứ mãi bám níu nhau
Xoay lăn tròn chóng mặt
Vô minh không tự biết
Là trụ cốt khởi đầu
Hành ác tức căm xe
Nối kết Thức tiến lên
Danh sắc - Lục nhập - Xúc
Thọ và Ái trôi lăn
Ái chúng sanhbình đẳng
Đến đỉnh cao trí tuệ
Vào chơn như làm Phật
Bay bổng thoát luân hồi
Thoát bánh xe khổ não!
Trái lại, Ái dục tình
Thì ích kỷ độc ác
Nặng nề buộc dính chặt
Phải rớt lộn trở xuống
Thủ, Hữu và Sanh, Tử
Tử rồi quay nhập thai
Danh sắc - Lục nhập - Xúc
Thọ và Ái trở lại
Xoay tròn và khổ lụy!
Càng Vô minh tối tăm
Càng Hành ácvận chuyển
Chúng sanh như con mọt
Đeo trụ cốt Vô minh
Phải điên đầu rối óc...
Níu lấy cây căm Hành
Té chơi vơi, lộn ruột!
Người mà ôm vành xe
Thức - Danh sắc - Lục nhập
Ái - Thủ - Hữu - Sanh - Tử...
Bị chết khổ tan hình!
Ấy là kẻ mãi sanh
Sanh tội ác, chết diệt
Thương đau... lụy đời đời
Vậy ta nên nhớ rằng:
Ái chúng sanh - hành thiện
Đến trí huệ chơn như
Ngôi chánh giác viên mãn
Sống đời đời không khổ
Kẻ buộc Ái tình dục
Đi vào đường vạy tà
Hành ác đến Vô minh
Nẻo vọng động, si mê
Chết diệt tiêu... khổ não
Chẳng được chút vui nào!
V. Thật vậy, sống ở đời
Biết làm chủ chính mình
Lấy trí tuệ trụ cột
Hành thiện làm căm xe
Chơn như làm vành bánh
Tức là bánh xe pháp
Chúng sanh cỡi bên trên
Đi chung quanh vòng đời
Sáng chói chơi, bay nhẹ
Hơn là lấy bánh xe
Vô minh làm trụ cốt
Hành ác làm căm xe
Vọng tưởng làm vành bánh
Mà phải chịu thảm hình!
Trong bánh xe vô minh
Luân hồi tám khổ lớn
Sanh - già và bệnh - chết
Cầu muốn không được khổ
Thương yêu xa lìa khổ
Thù ghét mà gặp gỡ
Ngũ uẩn xấu, tốt... hành
Cả muôn điều đau khổ!
Còn bánh xetrí tuệ
Có tám đạo Niết-bàn:
Thấy chánh, suy gẫm chánh
Nói chánh và làm chánh
Sống chánh, siêng năng chánh
Niệm tưởng, yên định chánh
Tất cả hưởng an vui!
Vô minh như dây rối...
Càng cựa quậy, buộc mình
Chẳng biết đầu, biết đuôi
Càng xao xuyến... càng khổ!
Trí tuệnhư gươm bén
Cắt đứt chỉ mành đời
Đầu đuôi đều rã đoạn
Trí tuệbiết dừng nghỉ
Thanh nhàn và an tịnh
Vô minhưa chạy nhảy
Nói làm cấu trược ảo
Mệt nhọc khổ không công!
Suốt đời múa giễu trò
Đến chết còn sợ sệt
Đảo điên trong mê muội
Dầu tỉnh ra đã muộn
Mong cầu đời kiếp khác
Chưa biết sẽ ra sao!
Thế mới chợt hiểu rằng:
Trần thế khói bụi mờ
Gió mưa ngày đêm lạnh
Khổ đau tự mình chịu
Khó than cùng chồng vợ
Mẹ cha và quyến thuộc
Có miệng mà như không
Chẳng kêu cứu được ai
Thế gian đầy khổ não
Thế gian là mộng ảo!
VI. Đứa trẻ trong bụng mẹ
Màn Vô minh che lấp
Bị các Hành bên ngoài
Mà sanh Thức biết trong
Có thức mới tượng hình:
Danh sắc và Lục nhập
Thai lớn chun ra ngoài
Ba tuổi lần có Xúc
Sáu tuổi Thọ tăng dần
Mười hai tuổi có Ái
Ái còn nhỏ hồn nhiên
Trong sạch và chơn chánh
Mười hai... biết thương yêu
Chấp thủ với gia đình
Ba mươi tuổi... xã hội
Bốn tám tuổi… già giặn
Biết thương yêu chúng sanh
Ái tình cao thượng ấy
Nảy nở đúng như vậy
Thật bác ái đại đồng
Thật từ bi vô lượng
Nhất định sẽ thành Phật.
Người: Thương yêu gia đình
Trời: Thương yêu xã hội
Phật: Thương yêu chúng sanh
Các bậc ấy quên mình
Biết lo cho kẻ khác
Muôn loại phải kính vì
Trái lại, lòng tư kỷ
Tham hưởng vui mê muội
Thích ái tình nhục dục
Đi xuống hố si mê
Chôn sâu trong địa ngục
Đọa khổ trong hắc ám!
Chịu khổ lụy không ngừng
Lần hồi hoại diệt tận
Đứng ngồi khó thở yên
Thế nên phải biết rằng:
Chữ Áiquý báu nhất
Mà cũng độc hại nhất.
Người người cần tỉnh ngộ
Từ Vô minh đếnTử
Là con đường tấn hóa
Địa ngục đến Niết-bàn
Từ chưa có đến có
Có vĩnh viễn tức không
Hay cũng là con đường
Bị cắt đứt giữa chừng
Chúng sanh vừa tấn hóa
Vừa thụt lùi, tan hoại!
Sự cắt đứt ấy là
Lưỡi gươm Ái suối vàng
Cũng gọi là oan nghiệt
Chỗ chôn người khổ nạn!
Lưỡi gươm Ái tòa sen
Lưỡi gươm Ái trí tuệ
Hay cụm mây, chiếc xe
Đưa chúng sanh về Phật.
An tọa vị Niết-bàn
Từ Vô minh lăn xoay
Đến Hành, Thức, Danh sắc
Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái
Nửa chặng đường tiến hóa
Nơi ấy chia hai nẻo:
- Ái chúng sanh tiến lên
- Ái tình dục đọa xuống.
a) Ái chúng sanh tiến lên
Từ bi và bác ái
Luôn thương người, giúp đời
Thủ giữ lấy tâm thiện
Lấy pháp thiện hộ đời
Luôn luôn hành thiện sự
Đem lợi lạc chúng sanh
Hàng ngày thực hành pháp
Phương tiện và trí tuệ
Hộ trì người vượt khổ
Sau rốt tự ly xả
Nghỉ hưu trí Niết-bàn.
b) Ái tình dục lui xuống
Quẹo bên trái, xấu, quấy
Mà chấp thủ, giữ lấy
Tham sắc tốt hữu vi
Tham tài sản của cải
Tham nhà cao cửa rộng
Tham tình tiền danh lợi
Mê ác nghiệp tội lỗi
Nghĩ mưu sâu kế độc
Chiếm đoạt lợi về mình
Gây ác báo dẫy đầy
Đến nỗi khi tử chết
Khổ điên cuồng tiêu diệt.
Vậy muốn hết luân hồi
Hết hắc ám khổ lụy
Phải tìm tòi, suy quán
Tỏ rõ nghiệp nhân duyên
Dùng trí huệ cắt đứt
Ái dục tình đời kiếp
Đam mê trói buộc mình
Nay muốn mình thoát khổ
Phải biết tự soi quán
Dẹp bóng tối vô minh
Phá tan hànhsự ác
Biết tu dưỡng chính mình
Hành trìBát Chánh đạo
Trú yên vui thiệt thọ.
Trí tuệ thì Hànhthiện
Thứcthiện, Danh sắc thiện
Lục nhập, Xúc, Thọ... thiện
Ái, Thủ, Hữu... đều thiện
Sanh, Tửluôntrọn thiện
Nhất định trú Niết-bàn.
Vô minh là Hành ác
Thức, Danh sắc, Lục nhập
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu
Sanh, Tử... ác luân hồi
Mãi khổ báo tiêu diệt!
Trí huệ hay vô minh
Do chính takhởi đầu
Do chính taquyết định
Lầm lạc khổ thâm sâu!
Trí huệ - sự hiểu trắng
Sống hiền thiện, an vui
Trí huệkhông cóHành
KhôngHành, đâu cóThức
KhôngThức, khôngDanh sắc
Không Lục nhập, Xúc, Thọ
Không Ái, không Thủ, Hữu
Không Sanh,Tử trầm luân
KhôngVô minhluân hồi!
Chúng sanh từ sống biết
Biết sợ Tử tham Sanh
Chấp Thủ - Hữu và Ái
Rồi Thọ - Xúc - Lục nhập
Nương Danh sắc, tậpThức
Bị trói Hành - Vô minh!
Giả mắt ngơ, tai điếc
Tưởng như ngu, dại, khờ
Sống dốt nát ngây ngô
Không cần biết đen trắng
Sống tạm qua ngày tháng
No bụng, sướng miệng thôi
Chẳng phân chia phải quấy
Như sâu mọt gặm nhấm
Đục phá nát cây trần.
Mười hai duyên tập khổ
Khởi phát từ Vô minh
Hay khai nguồnTrí huệ
Đều tự do chính mình!
Mỗi người tự quyết định
Thích đi lên, đi xuống
Như một cái vòng tròn
Địa ngục hay Niết-bàn
Sống khổ hay sống vui
Do chính mình lựa chọn
Cây thang mười hai nấc
Bước lên chốn thanh cao
Hay xuống nơi hố thẳm
Sống khổ, vui, còn, mất
Do chúng sanh tự quyết!
VII. Mười hai nhơn duyên pháp
Ví như một đám rừng
Có mười hai cánh cửa
Hay như một bánh xe
Có mười hai cây căm
Một cửa tức mười hai
Động một là động hết
Trong mộtcó mười hai
Trong mười hai có một
Dính nhau như dây xích
Quấn đeo, chồng chéo nhau
Chúng sanh khi vướng vào
Mãi quanh quẩn xoay tròn
Xây xẩm và chóng mặt
Không biết phương giải thoát!
Vĩnh kiếp bị trầm luân
Nhưng nếu được hữu duyên
Sống biết thương yêu nhau
Trong cùng cảnh rối khổ
Đồng lòng chung gắn kết
Sống biết linh... học tập
Tìm cắt dây xiềng xích
Khai phá cửa địa ngục
Thoát khỏi chết an vui.
Mười hai nhơn duyên pháp
Tức mười hai cửa Đạo
Đi tới miền Địa ngục
Hay đến cảnh Thiên đường
Hay vào trong cõi Phật
Mười hai Địa ngục ác
Mười hai Thiên đường thiện
Mười haicõi Phật huệ
Tất cả ác thiện huệ
Đều có mười hai cửa
Do chúng sanh tự chọn
Tức mười hai chứng bệnh
Xấu tốt hay mê ngộ
Có mười hai loại thuốc
Đặc trị bệnh chúng sanh
Thiện - Ác hay Tuệ giác.
Chúng ta ai cũng có
Một sở chấp, thói quen
Trong mười hai nhơn duyên
Nay muốn thoát luân hồi
Thì phải tự chính mình
Biết soi quán tự thân
Đang đọa khổ cửa nào
Thì lần ra cửa đó
Khi mê tham chìm đắm
Khi ngộ biết quay đầu
Cửa nào ra cửa đó
Tỉnh giácthoát bờ mê
Đừng tự chấp trói buộc
Bảo thủ mãi đi tới
Lỡ rồi thôi lỡ luôn
Khổ rồi đành chịu vậy
Khốn họa mãi khôn cùng!
Nắm lấy mười hai duyên
Vọng động hoài, khổ hoài
Biết buông, biết dừng lại
Nhất định được giải thoát
Khổ vui do chính mình
Tự mình - Sống biết linh!
Chúng ta nên biết rằng:
Trí huệlưỡi gươm thần
Múa ra hay gom hiệp
Cắt đứt các khổ sầu
Diệt tiêu phiền não chướng
Trí huệánh lửa sáng
Dẹp tan bóng vô minh
Thiêu đốt cỏ, cây, thú
Ma, người, trời, địa ngục
Cũng như chiếc cầu cao
Đưa ta qua biển ái
Như cặp cánh đại bàng
Đưa ta vượt rừng sâu
Như đám mưa tan bụi
Như bè vớt kẻ chìm
Như mái nhà che nắng
Như ánh sáng thanh thiên.
Trí tuệlà bến giác
Cặp mắt sáng soi đời
Như mặt trời, mặt trăng
Muôn loài nương để sống
Sự sống ai cũng muốn
Niết-bàn thường lạc tịnh!
Chơn thực và vĩnh viễn
Hột sen khô để đời
Khác hơn sự sống tạm
Của chúng sanh phàm phu
Hột còn non, còn nớt
Có khi quá khổ điên
Cảnh địa ngục, vô minh
Hột sình thúi, hư rã
Chớ cái thân huyễn ảo
Còn mất có tiếc chi!
Người trí tạm nương nó
Cho hột mau già cứng.
Cái chết, ai cũng sợ
Nhưng thân chết, không mất
Chớ cái biếtkhổ điên
Là chết mất biệt luôn!
Nên cái biết của ta
Phải chothật già cứng
Đừng để non, sâu thúi!
Cái khổlà con sâu
Ác gianlà chất thúi
Nó ăn mòn... thức, biết
Đục khoét... chết dần dần
Cái thức biết, sự sống
Phải gìn giữ, nuôi dưỡng
Nó trường tồn miên viễn
Thật an vui định tĩnh.
VIII. Thứ lớp của nhơn duyên nơi loài người
1. Vô minh là địa ngục
Tứ đại mới hiệp thành
Cho đến khi một tuổi
(Chưa có cái biết sáng).
2. Hành: Ngạ quỷ, cây, cỏ
Từ một tới sáu tuổi
(Chỉ có thọ cảm thôi,
Đói khát và tham lam).
3. Thức: Súc sanh, thú vật
Từ sáu tới mười hai
(Tuổi chỉ có tư tưởng
Biết hơn thua, sân giận).
4. Danh sắc: A-tu-la
Mười hai tới mười tám
(Tuổi tương tợ ác thần
Có hành vi, si mê).
5. Lục nhập là nhơn, người
Mười tám tới hăm bốn
(Biết hành thiện giúp đời
Có lòng nhơn, tín, nghĩa).
6. Cảm Xúc là Thiên, Trời
Hăm bốn tới ba mươi
(Tuổi có trí, cảm xúc
Biết thân thiện, chia sẻ).
7. Thọ giữ là Nhập lưu
Ba mươi tới ba sáu
(Cư sĩ biết ưa đạo
Tu-đà-huờn tín tâm).
8. Ái là Nhứt vãng lai
Ba sáu đến bốn hai
(Tư-đà-hàm, từ ái
Biết thương sót chúng sanh).
9. Thủ là A-na-hàm
Nghĩa Bất lai, giữ đạo
Tu tinh tấn, ly xả
Quyết xuất gia, giải thoát.
10. Hữu như A-la-hán
Sống Vô sanh, an tịnh
(Bốn tám đến năm tư
Tâm tánh vững chắc thật).
11. Sanh như hạnh Duyên Giác
Bích Chi Phật trong đời
(Năm bốn đến sáu mươi
Trí tuệ, tỏ rõ pháp
Giác ngộ, sống thanh tịnh).
12. Tử như hạnh Bồ-tát
Sống Giác tha hữu tình
(Sáu mươi đến sáu sáu
Coi như mình đã chết
Vì chúng sanh phụng sự).
Sáu sáu đến bảy hai
Gọi Như Lai hưu trí
An trụ tánh chơn như.
Qua khỏi bảy mươi hai
Là Niết-bàn trọn vẹn
Đạo đời dừng tắt nghỉ
Bất sanh và bất diệt
Tất cả là nhơn duyên
Từng trình độ pháp tiến
Theo tuổi tác đời người
Ai sống y như thế
Là biết tu - đắc đạo
Kết quả trong một kiếp
Nhất định chẳng sai ngoa!
Muốn biết rõ cách tu
Của từng hạng bậc ấy
Ta cầnhọc giới luật
Giới luật là nền tảng
Cội gốc của chúng sanh
Riêng nơi Chơn lý này
Ta cầnbiết nguồn gốc
Nhơn duyênTập trước đã!
Quan trọng nhấtchữ ái
Chia ngã rẽ hai đường
Người đứng trên chữ Ái
Là chư Phật, chư Tổ
Người đứng dưới chữ Ái
Là chúng sanh phàm phu
Điều đó đáng lưu ý
Cho chúng ta thận trọng
Tự chọn, quyết cho mình
Phật - Tổ hay ngu phu
Tự mình quyết, mình chọn.
IX. Nhơn và Quả của Mười hai nhơn duyên
1. Vô minh cộng với Hành
Là nhơn duyên quá khứ
2. Thức, Danh sắc, Lục nhập
Là quả báo hiện tại
3. Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu
Là nhơn duyên hiện tại
4. Sự Sanh - Tử cuộc sống
Là quả báo vị lai.
Chúng sanh nhiều đời kiếp
Do Vô minh, Hành ác
Gây nhơn duyên nghiệp chướng
Nên mới phải nhập thai
Sanh Thức và Danh sắc
Lục nhập quả hiện tại
Có thân hình đời này
Bởi có thân hình này
Mới có Xúc, Thọ, Ái
Tánh Thủ, Hữu đang có
Tiếp gây nhơn hiện tại
Chịu quả Sanh - Tử sau
Quả vị lai khổ não!
*Muốn không quả vị lai
Sanh - Tử khổ thì nhớ
Đừng cónhơn hiện tại
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu.
*Muốn không nhơn hiện tại
Phải không quả hiện tại
Thức, Danh sắc, Lục nhập
(Thì không quả vị lai).
*Muốn không quả hiện tại
Phải trừnhơn quá khứ:
Vô minh và Hành ác
Đã là nhơn quá khứ
Làm sao dứt trừ được
Âu là ta hôm nay
Muốn sau nàykhông khổ
Không Sanh Tử - Vô minh
Thì đời nàyphải nhớ
Cố tu tập trí huệ
Tập hành thiện, bỏ ác
Thì mới mong có được
Dòng luân hồi đời sau
Đời sống được sáng trưng
Dứt sanh tử khổ quả
Dừng nghỉ Niết-bàn vui!
Không còn tám vạn chướng
An hưởng tám vạn vui
Giác ngộ chơn như đạo
Tuyệt dứt sanh tử báo
Dòng luân hồi vắng lặng
Phật Như Lai tịch tịnh!
Phật Như Lai hạo nhiên!
Tổ sư Minh Đăng Quanggiảng luận
Sa-môn Giác Toàndiễn kệ
(Pháp viện Minh Đăng Quang, 22-4-Canh Tý – 2020)